Tóm tắt: Âm nhạc truyền thống, âm nhạc hàn lâm và âm nhạc đại chúng vừa có sự khác biệt nhất định về đối tượng, phong cách, phương pháp tiếp cận trong công tác đào tạo và biểu diễn, song có mối liên hệ mật thiết với nhau. Sự kết hợp hài hòa, phù hợp giữa ba dòng nhạc này, cùng với sự đầu tư trí tuệ và 46 trách nhiệm, sẽ cho ra những sản phẩm âm nhạc Việt Nam có giá trị cao, chất lượng tốt, vừa mang tính hiện đại, vừa có bản sắc riêng, dễ dàng chinh phục khán giả trong và ngoài nước. Bài viết trình bày một số thực trạng và đưa ra giải pháp trong công tác đào tạo, phát triển ba dòng nhạc trên tại các cơ sở đào tạo, đặt trong bối cảnh kỷ nguyên số và phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam.
Từ khoá: Âm nhạc truyền thống, âm nhạc hàn lâm, âm nhạc đại chúng.
Đặt vấn đề
Trong lịch sử phát triển nhân loại, âm nhạc là một trong những hình thái nghệ thuật xuất hiện sớm nhất. Đó có thể là những âm thanh sơ khởi được con người tạo ra bằng những thứ có sẵn trong tự nhiên nhằm xua đuổi muông thú, dồn chúng vào nơi đặt bẫy hoặc nơi có thể săn bắt để làm thức ăn sinh tồn; những tiếng hò, reo trong mừng vui, tiếng hét lên trong đau đớn; hay những âm thanh vi vu đâu đó trong mênh mông hơi thở rừng già. Từ những lời thì thầm dỗ dành cho đứa bé con đi vào giấc ngủ…rồi đến những nhịp trống, tiếng chiêng, điệu hò, giọng sáo, tiếng hát, lời ru; những bản giao hưởng, hợp xướng, opera, thanh xướng kịch hoành tráng hiện đại…Âm nhạc gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của cộng đồng, đồng hành cùng lịch sử, phản ánh tâm tư, tình cảm, tình yêu và khát vọng của con người.

Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển vũ bão của công nghệ truyền thông và công nghiệp giải trí, âm nhạc Việt Nam đang chứng kiến những biến đổi mạnh mẽ. Các dòng chảy âm nhạc truyền thống, hàn lâm và đại chúng cùng phát triển và giao thoa lẫn nhau. Điều này mở ra cơ hội to lớn để phát huy bản sắc văn hóa, âm nhạc dân tộc, nâng cao chất lượng nghệ thuật, đồng thời đưa âm nhạc Việt Nam đến gần hơn với công chúng trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng sự phát triển này chưa đồng đều. Trong khi âm nhạc đại chúng bùng nổ và chiếm lĩnh đời sống văn hóa với tốc độ chóng mặt, thì âm nhạc truyền thống và âm nhạc hàn lâm vẫn đang gồng mình, loay hoay tìm cách duy trì và mở rộng đối tượng khán giả. Do đó, việc bàn luận về hướng 47 đào tạo, phát triển âm nhạc truyền thống, âm nhạc hàn lâm, gắn với ứng dụng chúng trong dòng âm nhạc đại chúng là hết sức cấp thiết, không chỉ về mặt học thuật mà còn mang nhiều ý nghĩa, giá trị đối với mọi mặt đời sống xã hội.
Thực trạng đào tạo, phát triển ba dòng âm nhạc ở Việt Nam
(1) Âm nhạc truyền thống (Traditional music)
Âm nhạc truyền thống Việt Nam vô cùng phong phú, đa dạng về thể loại, hình thức, nội dung, phương thức truyền tải và hưởng thụ… thông qua các phương tiện như: Nhạc cụ - nhạc đàn, giọng hát – nhạc hát, cùng với các loại hình sân khấu truyền thống như: Chèo, Tuồng, Hát bội, Cải lương, Quan họ,...Nhiều di sản đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Hiện nay, một số cơ sở đào tạo nghệ thuật từ trung cấp đến đại học và sau đại học vẫn duy trì hệ thống đào tạo nhạc đàn, nhạc hát và các loại hình sân khấu truyền thống nêu trên. Tuy nhiên, số lượng người theo học còn hạn chế. Công tác đào tạo, truyền nghề chủ yếu dựa vào các nghệ nhân, nhiều người đã cao tuổi và mất đi, khiến việc bảo tồn gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, khán giả trẻ ngày càng ít quan tâm đến âm nhạc truyền thống; môi trường, không gian biểu diễn dần bị thu hẹp, dẫn tới nguy cơ mất cân bằng giữa bảo tồn và phát triển.
(2) Âm nhạc hàn lâm (Classical music)
Âm nhạc hàn lâm tại Việt Nam được hình thành từ đầu thế kỷ XX, chịu ảnh hưởng từ châu Âu. Các cơ sở đào tạo lớn như Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, Nhạc viện Huế, Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội đã đào tạo nhiều thế hệ nghệ sĩ biểu diễn nhạc đàn và nhạc hát, sáng tác, chỉ huy tài năng. Đã có những nghệ sĩ tầm quốc gia và quốc tế như: Đặng Thái Sơn, Bùi Công Duy, Trần Thu Hà; Lê Dung, Quý Dương, Trung Kiên, Trần Hiếu, Rơ Chăm Phiêng, Đào Tố Loan, Hà Phạm Thăng Long, Phạm Văn Giáp, Đỗ Phương Mai, Dương Đại Lâm, Trịnh Phương, Lê Xuân Hảo, Đỗ Tố Hoa,…
Tuy vậy, số lượng khán giả yêu thích dòng nhạc này chưa nhiều; các buổi hòa nhạc thường phục vụ đối tượng khán giả hạn chế. Một số chương trình nghệ 48 thuật vẫn mang tính “hàn lâm biểu diễn cho hàn lâm thưởng thức”, chưa có sự kết nối rộng rãi với đời sống văn hóa, âm nhạc đại chúng.
(3) Âm nhạc đại chúng (Popular music)
Âm nhạc đại chúng phát triển mạnh mẽ, trở thành dòng chảy chủ đạo trong đời sống xã hội. Các thể loại như pop-ballad, rap, hip hop, EDM, indie, R&B... liên tục chiếm lĩnh thị trường, đặc biệt nhờ sự bùng nổ của các nền tảng mạng xã hội (YouTube, Facebook, TikTok) và nền tảng số khác.
Các cơ sở đào tạo âm nhạc lớn ở Việt Nam chưa có nhiều bước tiến thực sự, thậm chí, một số còn có sự “né tránh” trong công tác đào tạo dòng nhạc này. Trong chương trình đào tạo của một số cơ sở được xem như tiên phong trong đào tạo gắn với thực tiễn thông qua hình thức thực hành biểu diễn như Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội… cũng chỉ được đào tạo như một hình thức thử nghiệm – tham khảo với số lượng tín chỉ khiêm tốn, chưa đưa vào chính quy, chưa có đột phá mạnh mẽ. Trong khi đó, thành công của một số nghệ sĩ trẻ như Sơn Tùng M-TP, Hoàng Thùy Linh, Phương Mỹ Chi, Hòa Minzy, Mỹ Anh, Mono,… cho thấy khả năng cạnh tranh và sức sáng tạo lớn của dòng nhạc này trong thực tế đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, có hiện tượng, một bộ phận chạy theo xu hướng, vay mượn hình thức từ K-pop, J-pop hoặc nhạc Âu – Mỹ,… Tuy nhiên, không ít sản phẩm ra đời chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhất thời, dễ nghe nhưng ít chiều sâu, chưa tạo được bản sắc riêng do thiếu nền tảng đào tạo chính thức, chính quy, nghiêm túc.
Giải pháp về đào tạo, phát triển ba dòng âm nhạc
Cùng với nhiều sự phát triển và thay đổi lớn trong xã hội, giới trẻ ngày càng ít tiếp xúc, ít hiểu và quan tâm đối với văn hóa truyền thống nói chung, âm nhạc truyền thống nói riêng, thậm chí, coi âm nhạc truyền thống là cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời…
Bên cạnh đó, làn sóng, trào lưu, xu hướng âm nhạc đại chúng có nhiều lợi thế hơn với tốc độ phủ sóng nhanh, mạnh mẽ và rộng rãi. Đầu tư bài bản về công nghệ, công nghiệp và thương mại; mô hình hợp tác kết hợp đầu tư, cạnh tranh liên 49 quốc gia, xuyên quốc gia cũng được đẩy mạnh; huy động đông đảo nguồn lực con người, tài chính đảm bảo cho các mặt hoạt động, các giai đoạn của công nghiệp văn hóa từ đào tạo đến sáng tạo, thi công và quảng bá.
Trong khi đó, âm nhạc truyền thống, âm nhạc hàn lâm chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu nhiều cơ chế và sự đầu tư chiến lược, bài bản, lâu dài; chưa có nhiều chương trình đào tạo phù hợp, đột phá; chưa có sự liên thông, kết hợp giữa ba dòng nhạc.
Sự tách biệt trong đào tạo và biểu diễn giữa ba dòng nhạc này dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là chưa đáp ứng tốt nhu cầu thưởng thức, hưởng thụ của công chúng, từ đó hiệu quả lan tỏa, quảng bá các giá trị của các dòng nhạc này còn hạn hẹp, sức cạnh tranh thấp. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đề xuất một số nội dung trong công tác đào tạo và phát triển âm nhạc truyền thống, âm nhạc hàn lâm ứng dụng trong dòng âm nhạc đại chúng.
Thứ nhất, Nâng cao nhận thức và trách nhiệm. Đào tạo, phát triển âm nhạc truyền thống và âm nhạc hàn lâm là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Bên cạnh chiến lược truyền thông quốc gia để nâng cao nhận thức, trách nhiệm về vai trò, giá trị của hai dòng âm nhạc này trong đời sống tinh thần của xã hội, các cấp quản lý giáo dục, đào tạo, đội ngũ nghệ sĩ, giảng viên cần phát huy tốt hơn nữa vai trò trách nhiệm của mình trong giáo dục, đào tạo. Bởi vì, âm nhạc truyền thống và âm nhạc hàn lâm chính là nền tảng tạo nên bản sắc và chiều sâu văn hóa xã hội. Việc giáo dục, định hướng thẩm mỹ âm nhạc và hưởng thụ văn hóa đối với học viên, học sinh, sinh viên và đối với xã hội cần được chú trọng hơn nữa, không chỉ dừng ở kỹ năng chuyên môn mà còn phải hướng đến giáo dục thẩm mỹ, lòng tự hào dân tộc và tinh thần sáng tạo. Cần tổ chức nhiều chương trình biểu diễn, giao lưu, trải nghiệm âm nhạc dân tộc, âm nhạc hàn lâm cho học viên – sinh viên ngay từ trong môi trường đào tạo.
Thứ hai, Đầu tư chiến lược dài hạn về con người, cơ sở vật chất, trang thiết bị. Về con người: Cần xây dựng đội ngũ nghệ sĩ, giảng viên có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết sâu về văn hóa, âm nhạc dân tộc cũng như âm nhạc hàn lâm, giỏi nghiệp vụ sư phạm, ứng dụng tốt ngoại ngữ và công nghệ. Có chính 50 sách hỗ trợ, thúc đẩy trong trao đổi đào tạo tài năng, đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ lâu dài, có chất lượng cả trong nước và quốc tế, nhất là việc gắn đào tạo trong nhà trường với thực tiễn xã hội, vừa thúc đẩy việc ứng dụng âm nhạc truyền thống và âm nhạc hàn lâm với đời sống âm nhạc đại chúng. Đồng thời, góp phần khẳng định phương châm giáo dục, đào tạo trong quân đội: “Chất lượng đào tạo của Nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị: Cần đầu tư xây dựng và nâng cấp phòng học, trang thiết bị dạy học, phương tiện nghe nhìn hiện đại; thư viện, kho dữ liệu phong phú, đa dạng, đạt chuẩn và cập nhật thường xuyên. Đặc biệt, cần có cơ chế mở, khuyến khích, tạo điều kiện trong lan tỏa, quảng bá rộng rãi ra công chúng các sản phẩm âm nhạc, sản phẩm đào tạo của cán bộ, giảng viên, học viên – sinh viên trong nhà trường.
Thứ ba, Chuẩn hóa hệ thống giáo trình, tài liệu và đổi mới phương pháp giảng dạy. Một trong những nền tảng cốt lõi của đào tạo âm nhạc là giáo trình và phương pháp giảng dạy. Hiện nay, giáo trình, tài liệu giảng dạy còn thiếu, chưa hoàn thiện, thiếu tính hệ thống, thống nhất đối với cả ba dòng nhạc này, thậm chí các giảng viên trong cùng một dòng nhạc nhưng sử dụng giáo trình, tài liệu, bài giảng khác nhau, không đồng bộ, thiếu tính quy chuẩn. Do đó, cần tiến hành chuẩn hóa, biên soạn, chỉnh lý và số hóa giáo trình, tài liệu giảng dạy âm nhạc truyền thống và hàn lâm. Đặc biệt, cần có bộ quy chuẩn thống nhất cho từng dòng nhạc, từng bậc đào tạo, từng năm học, từng học kỳ… nhằm đồng bộ trong quá trình đào tạo.
Cần có ngân hàng dữ liệu phong phú, đa dạng của ba dòng nhạc này, tích hợp hình ảnh, bản ghi âm, ký âm, video, cùng các công trình lý luận để phục vụ giảng dạy và nghiên cứu. Đồng thời, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) và nền tảng trực tuyến vào quá trình dạy – học, nhằm tăng khả năng tiếp cận và thu hút thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, cần có sự kết hợp khoa học, hợp lý 51 giữa phương pháp truyền nghề với đào tạo chính quy, điều này vừa giữ được cốt cách, lề lối cổ truyền, vừa nâng cao hơn tốc độ, chất lượng giáo dục, đào tạo.
Thứ tư, Phát triển âm nhạc truyền thống, hàn lâm gắn với công nghiệp văn hóa. Âm nhạc truyền thống và âm nhạc hàn lâm không chỉ là di sản tinh thần mà còn là nguồn lực văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Nghị quyết 33-NQ/TW và Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030 đã xác định, công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp sáng tạo, có khả năng đóng góp vào GDP quốc gia, đồng thời lan tỏa giá trị Việt Nam ra thế giới.
Theo đó, một số nội dung cần xác định cụ thể về xây dựng chuỗi giá trị âm nhạc Việt Nam trong tất cả các khâu: (i) Đào tạo – sáng tạo – biểu diễn – truyền thông – thương mại hóa – xuất khẩu sản phẩm; (ii) Tham gia sản xuất, phát hành và quảng bá sản phẩm âm nhạc truyền thống, âm nhạc hàn lâm với nhiều hình thức (như Album, MV, livestream, phim tài liệu, game âm nhạc, nền tảng thực tế ảo…); (iii) Tổ chức các tọa đàm, hội thảo, liên hoan, cuộc thi… nhằm tạo cơ hội cho nghệ sĩ, giảng viên, học viên – sinh viên biểu diễn, giới thiệu sản phẩm mới… dần xây dựng sắc thái, thương hiệu cá nhân ngay từ trong môi trường đào tạo; (iv) Quảng bá và lan tỏa giá trị âm nhạc đến công chúng thông qua các giải pháp truyền thông, các nền tảng mạng xã hội cho các chương trình biểu diễn chuyên đề, talkshow, phim tài liệu, chương trình phát thanh, truyền hình; (v) Khuyến khích sự giao thoa giữa nghệ sĩ truyền thống, hàn lâm và đại chúng, tạo ra các tác phẩm, chương trình, dự án âm nhạc sáng tạo, hợp tác, vừa gần gũi với giới trẻ vừa giữ được chiều sâu nghệ thuật.
Phát triển âm nhạc truyền thống và âm nhạc hàn lâm trong bối cảnh công nghiệp văn hóa là hướng đi tất yếu để ứng dụng các dòng nhạc này vào trong âm nhạc đại chúng, vừa bảo tồn được di sản quý báu của dân tộc, của nhân loại, vừa khai thác tiềm năng sáng tạo của thế hệ mới.
Kết luận
Đào tạo và phát triển âm nhạc truyền thống, âm nhạc hàn lâm và ứng dụng vào trong âm nhạc đại chúng không chỉ là yêu cầu chuyên môn mà còn là chiến 52 lược văn hóa. Âm nhạc truyền thống, hàn lâm và đại chúng có sự khác biệt về đối tượng, phong cách, phương pháp, phương thức, không gian… đào tạo và biểu diễn, nhưng lại có mối liên hệ mật thiết với nhau. Âm nhạc truyền thống là văn hóa cội nguồn bản sắc dân tộc, là “mỏ vàng” cung cấp cốt cách, chất liệu phong phú để khai thác, sáng tạo và trình diễn… Âm nhạc hàn lâm cung cấp nền tảng lý thuyết, khúc thức, kỹ năng giúp nghệ sĩ phát triển ở trình độ chính quy, chuyên nghiệp. Âm nhạc đại chúng là nơi cho sự lan tỏa mạnh mẽ và nhanh nhất, đưa giá trị nghệ thuật đến với đông đảo công chúng, đặc biệt là giới trẻ.
Sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa ba dòng nhạc này, cùng với sự đầu tư trí tuệ và trách nhiệm, sẽ cho ra những sản phẩm âm nhạc Việt Nam có giá trị cao, chất lượng tốt, vừa mang tính hiện đại, vừa có bản sắc riêng, dễ dàng chinh phục khán giả trong và ngoài nước. Âm nhạc truyền thống, âm nhạc hàn lâm và đại chúng không nên tách biệt, mà nên là ba trụ cột cùng nhau tạo nên diện mạo nền âm nhạc Việt Nam. Việc đào tạo và ứng dụng hiệu quả 3 dòng âm nhạc này sẽ giúp âm nhạc Việt vừa có chiều sâu nghệ thuật, vừa có sức lan tỏa rộng rãi, đủ khả năng hội nhập quốc tế, góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc./.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
[2] Âm nhạc truyền thống Việt Nam – Những giá trị và con đường bảo tồn, phát huy, Nxb Văn hóa – Thông tin.