NGUYỄN THỤY KHA- MỘT ĐỜI LANG BẠT, MỘT ĐỜI TÀI HOA

picture1-1741938147.png
 

“Bố cháu yếu lắm rồi cô ạ”. Sau cuộc điện thoại với Phương An, tôi bần thần cả người. Vậy là sau cơn thập tử nhất sinh lúc giáp tết, anh đã tỉnh lại, thậm chí còn nghe được điện thoại, thì tình hình sức khỏe không khả quan hơn. 

Chao ôi, Kha Voi - cái hỗn danh thời trẻ tôi vẫn nghe nhiều người gọi vậy - đã hơn 6 tháng nằm trong bệnh viện vì bạo bệnh. Bé Phương An là cảm hứng để bố Thụy Kha viết bài hát Mùa xuân có bao điều lạ

Én có gì lạ - báo mùa xuân sang

Và đất có gì lạ - cánh mai vàng ươm

Pháo có gì lạ - mà tiếng nổ vang

Bài hát có gì lạ làm em rộn ràng…

Mới ngày nào, buổi sáng ngồi sau xe đạp bố đưa lên gửi nhà bác Nguyễn Kim Nữ Hạnh ở đầu phố Trần Hưng Đạo, chiều lại đón về. Giờ con thơ, bố đau, mẹ yếu tất bật.

Với tôi, Kha là những năm tháng thanh xuân tươi đẹp, những năm 89-90 của thế kỷ trước, lang thang theo anh đến những cuộc tụ tập bạn bè. Vui nhất lúc ấy là sân 51 Trần Hưng Đạo, ở đó có Ngô Thảo, Thanh An, Trịnh Thanh Sơn, Hồ Thi, cụ Hoàng Cầm cũng hay có mặt, Nguyễn Đình Toán kè kè máy ảnh, Nông Quốc Bình, Hoàng Hồng Cẩm, thỉnh thoảng thấy cụ Huy Cận…

Anh gọi sân 51 đông đúc ấy là “cái tổ len”. Ngày ấy nghèo lắm, chỉ có mấy quán nước chè vài chai cuốc lủi, lạc rang. Sang thì ra quán café nằm ở tầng dưới khách sạn Đường Sắt góc ngã tư Lý Thường Kiệt - Phan Bội Châu, tôi nhớ cụ Đoàn Chuẩn hay ngồi đấy. Thời kỳ nghèo khó ấy mà cụ vẫn mang phong thái ung dung, công tử, nụ cười hiền và ánh mắt nheo nheo. Anh kể cho tôi những mối tình làm nên những bản tình ca của chàng nhạc sĩ đa đoan Đoàn Chuẩn.

Chẳng hiểu sao anh hay rủ tôi đi chơi: “Mai có cuộc này, cuộc nọ…”, nếu thấy tôi có vẻ ngần ngừ, anh nói thêm: “Vui mà”. Thế là tôi lại lẽo đẽo theo anh. Cuộc nào có Kha chẳng vui, anh cao to, trông hơi bột nhưng đầy chất sóng gió giang hồ. Trí nhớ của anh rất đặc biệt, anh nhớ từng bài hát, bài thơ, nguồn cơn được sáng tác lúc nào, của ai như một cuốn từ điển sống. Đến giờ tôi vẫn nhớ lúc anh đập tay xuống bàn làm nhịp hát “Bài ca đặt vòng” có đoạn: “A, chị em ta nay đã đặt vòng…” làm cả đám lăn ra cười.

Có lần, theo anh đến thăm cụ Đặng Đình Hưng nằm ở viện Việt Xô. Lúc ấy, sau những dập vùi của cuộc Nhân văn, cụ là người cha của danh cầm nổi tiếng Đặng Thái Sơn. Nghe họ nói chuyện về cuốn Ô mai cụ viết mà chưa in được, cụ quay ra hỏi chuyện tôi, thấy tôi nói làm xây dựng thì cụ bảo Kha: “Không cùng nghề thế là tốt.” Mải kính cẩn nghe chuyện mà không hiểu cụ nghĩ tôi là người yêu Kha. Ôi, lúc ấy tôi như con ngỗng có nghĩ gì đâu. Chắc chẳng chỉ cụ Hưng, có lẽ nhiều người cũng nghĩ vậy. Thế mà chúng tôi cứ thế đi chơi với nhau mấy năm liền, chẳng có chuyện yêu đương gì. Có lẽ Kha Voi thấy thú vị con ngỗng lộc ngộc, hồn nhiên là tôi, đi bên nhau, cao ngất ngưởng so với mọi người xung quanh cũng vui nên hay rủ đi cùng.

Những năm 1989-1990, cả nước đang trong cơn chuyển mình, mở tung cánh cửa kinh tế thị trường, cán bộ, công nhân viên nghỉ ăn 70%, rồi 30% lương, rồi nghỉ không lương, tự nuôi gà, nuôi lợn, đan len, cuộn thuốc lá, buôn bán…, nghĩa là tự lần hồi mà sống. Nguyễn Thụy Kha đang ở những tháng năm cuối cùng của đời quân ngũ, lương lính chẳng được bao nhiêu, rồi anh xuất ngũ chuyển về làm việc ở tạp chí Âm nhạc. Lúc ấy tôi mới biết anh đi lính diện “B trọc”, ra quân với quân hàm Thiếu tá nhưng chẳng được chút chế độ gì. Không lương, không tấc đất cắm dùi.

Không nhận gì về mình ngoài sự được hy sinh

Những người “B trọc”…

Nhưng đổi lại, những năm tháng chiến tranh đã biến chàng lính trẻ thành nhà thơ Nguyễn Thụy Kha với bài Mưa đồng hành đoạt giải Nhì cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1982 và tập thơ Thời máu xanh viết về những người lính thời chống Mỹ.

Một thế hệ chợt rùng mình

Thành lính…

…Những giọt máu xanh

Chảy lặng lẽ trên thân hình bán đảo…

Anh đã kể cho tôi nghe về nỗi ám ảnh những tháng năm khốc liệt của cuộc chiến, những gương mặt xanh tái vì đói, vì sốt rét, những thanh xuân ở cả hai bên chiến tuyến ngã xuống, những dòng máu đỏ như xanh màu ngoại tệ của các bên bơm vào cuộc chiến.

…Tôi cởi những thập niên máu xanh

Đến bao giờ máu tôi đỏ lại…

Tạp chí Âm nhạc, tưởng là nơi ghé tạm dùng chân sau khi rời quân ngũ, lại là nơi anh gắn bó và cho anh nhiều thành tựu. Đi nhiều, biết nhiều, nhớ nhiều, đa tài, luôn tràn đầy sinh lực để bước vào nhiều lĩnh vực nên sau này, với thơ Kha có phần xao lãng, bù lại phần biên tập, nghiên cứu âm nhạc, sáng tác khá dày dặn và có bản sắc riêng.

Quảng giao, yêu quý những bậc đàn anh tài hoa bao năm bị dập vùi khốn khổ: Văn Cao, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Đoàn Chuẩn, Bùi Ngọc Tấn…, sau này là Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thiên Đạo... Yêu quý và hết lòng giúp đỡ bạn bè, sẵn lòng tiêu đến đồng xu cuối cùng là Thụy Kha. Mảng sách về tác giả của anh khá nhiều, Văn Cao - Người đi dọc biển như một cuốn phim tài liệu chi tiết về “ông quốc ca”, rồi Nguyễn Thiên Đạo - Nhạc sĩ bị giời đày và đặc biệt Thôi ta còn bạn bè là những gương mặt đàn anh, bạn bè mà anh yêu quý. Những gương mặt ẩn hiện trong ký ức, những sương khói khuất xa người còn người mất được Kha dựng lại và trải cả lòng mình ở đó. Đặng Đình Hưng - Một cuộc cách tân thơ âm thầm, Hùng Lân - bắt đầu từ thánh ca, Trọng Loan - Từ một người lính thập vạn Đại Sơn, Bùi Ngọc Tấn - Mùa giáng sinh cuối, Nguyễn Khoa Điềm - Bơi ngược về cõi lặng…, đọc những chân dung ấy mới thấy Kha yêu bạn bè đến nhường nào.

Số phận ném “thằng bé bụi đời lang thang phố xá” Nguyễn Thụy Kha vào cuộc chiến, đi qua những chiến trường khốc liệt nhất, trôi dạt trên mọi miền đất nước, tôi luyện ra một thi sĩ Nguyễn Thụy Kha ngang tàng, giang hồ đầy trắc ẩn, ưu tư

Loạn lạc rồi lưu lạc dạt trôi

Đâu sống được đấy thành quê quán.

Cuộc mưu sinh bằng chữ nghĩa nhọc nhằn chỉ đủ trang trải cho những cuộc ngao du, những bù khú bạn bè. Nhưng cũng chính những cuộc rong chơi ấy mở ra một Thụy Kha nhà báo, một Thụy Kha nhạc sĩ. Dù có là thi sĩ, nhạc sĩ hay nhà báo, anh vẫn là Kha Voi nghênh ngang, giang hồ, nhưng vô cùng yêu quý bạn bè, đồng đội, đầy nghĩa khí và đa đoan, ấm áp. Chẳng đa đoan, ấm áp thì làm sao có những câu thơ:

Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ

Rơi cơn mưa ban trưa

Chợt thấy mình tách thành hai nửa

Nửa ướt bây giờ nửa ướt xa xưa...

Vừa nghe tin anh ra đi trưa nay, ngày 13/3/2025. Từ hôm qua trời Hà nội đã mưa dầm dề. Buồn quá. Đã vượt qua những đại hạn của Thời máu xanh khốc liệt, Nhưng đại hạn này đã quật ngã thi sĩ giang hồ đất cảng. thế mà bạn bè vẫn đang chờ anh bình phục trở về với cuốn sách dự định sẽ in trong năm nay, còn anh “thi sĩ rong chơi” lên đường vào cuộc lãng du cuối cùng. Ở đấy cũng có biết bao bạn bè chờ anh, có những người đàn anh, bạn bè mà anh từng yêu mến. Anh lên đường đồng hạnh cùng những giọt mưa hôm nay về lòng đất mẹ.

 

picture2-1741938166.png
 

Trưởng ban Tang lễ:

PGS.TS, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân - Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Bí thư Đảng đoàn - Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

Phó ban Tang lễ:

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.

Thiếu tướng, nhạc sĩ Nguyễn Đức Trịnh - Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

Thành viên:

Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền - Phó Chủ tịch phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Ông Đỗ Quang Hạnh - nhà báo

Ông Lê Thiết Cương - hoạ sĩ

Tác giả: Lê Anh Thúy